Cố Điện (Hoàng Xuân Hãn) - P3

Thứ bảy - 20/07/2019 08:42
Quì Hợp, vùng vua Hàm Nghi trốn bấy giờ, có một lịch sử lâu đời. Từ đời Đường, đường qua lại trên bộ từ miền Đông Hải đến Tây dương hay Tiểu tây dương đã từng qua đó ...
Trong thế kỉ 12, đếquốc Chân Lạp rất thịnh, đã mượn đường nầy sang giành châu Nghệ An. Tại địa hạt Hà Tĩnh ngày nay, nước dãy núi Trườngsơn chảy xuống, mượn hai ngọn sông lớn Ngàn Phố với Ngàn Sâu (xem phụđồ). Ngàn Phố hướng Tây-Đông, chảy qua huyện Hương Sơn ; Ngàn Sâu hướng Nam-Bắc chảy qua huyện Hương Khê, qua chốn Vũ Quang, chỗ xưa có đồn Cầnvương Phan Đình Phùng đóng. Hai sông gặp nhau dưới chân núi Linh Cảm, thành ngã ba Tam Soa (ba nhánh), rồi hợp thành La Giang, uốn lên hướng Đông-Bắc để rót vào sông Lam Giang, chừng hơn 10 km sau Linh Cảm. Khúc trên La Giang chảy gần huyện lị La Giang (sau đổi ra La Sơn), và phủlị Đức Quang (sau đổi ra Đức Thọ) và phần lớn « làng » Yên Việt (năm 1822 đổi ra Việt Yên).



    Đời Nguyễn, đất ấy đã chia làm hai tổng : Kẻ Thượng ở bờ Bắc La Giang và Kẻ Hạ ở bờ Nam. Riêng Kẻ Hạ có hai xã lớn Yên Việt Hạ và Yên Tuyền (đời Thiệu Trị đổi ra Yên Đồng vì kiêng huý vua). Yên Việt Hạ gồm thôn Tùng Ảnh là quê cố Điện ; Yên Tuyền gồm thôn Yên Thái là quê chung của Phan Đình Phùng và Hoàng Cao Khải. Vùng nầy là đất phìnhiêu, chìếnlược, kínđáo. Chắc từ lâu đã có họ Phan tới ở, rồi con cháu phồnthịnh, tràn ra khaitịch những đất chungquanh. Ngày sau, trong vùng Hương Sơn, La Sơn, gần Linh Cảm có rất nhiều họ Phan mà giaphả không còn biết là cùng tổ, mặc dầu có khi ở cùng một thôn. Một sự lạ là sau khi nhà Nguyễn mở khoa thi đến năm mất nước, vùng nầy đứng đầu trong nước về khoacử, và cầm đầu là họ Phan. Chỉ mấy xã này thuộc huyện La Sơn mà có 64 vị cử nhân (28 họ Phan), trong đó gồm 15 vị đạikhoa : tiếnsĩ hay phóbảng (họ Phan có 5 tiếnsĩ và 3 phóbảng). Bảng thống kê như sau (ngoài vòng đơn : số cửnhân ; trong vòng đơn thì số không dấu là tiếnsĩ và số trước dấu chấm là phóbảng)
    Nói riêng về thôn Đông Thái, có ba họ Phan khác nhau (theo giaphả) mà đều có người đậu tiếnsĩ. Phan Du (1875) chỉ một mình. Phan Nhật Tỉnh (vua Thiệu Trị cho tên Tam Tỉnh) đậu tiếnsĩ năm 1842 có con, Phan Trọng Mưu, và cháu điệt, Phan Huy Nhuận, cũng đều đậu tiếnsĩ khoa 1879. Còn Phan Đình Phùng, tuy chỉ một mình trong họ đậu tiếnsĩ, nhưng đậu đìnhnguyên và có bốn vị bà con đậu phóbảng : bác tên Văn Nhã (1829), cha tên Văn Tuyên (l844) và em tên Đình Viện (1868). Sau đây, tôi sẽ tómtắt giaphả họ Phan nầy, từ đời thứ 8 đến đời thứ 10, với tên những người có đậuđạt hoặc liênquan đến phongtrào cầnvương.
Giaphả chép chỉ lên đến đầu thếkỉ 17, đời chúa Trịnh Tráng, từ đất Hương Sơn dời xuống ở xứ Yên Việt nầy. Đời thứ 7 có Phan Đình Tiến (1775-1816), học và có đi thi hương, nhưng mất sớm. Vợ họ Mai (1777-1856) ở goá nuôi mẹ và chăm cho năm trai ăn học ; trong đó, trừ con cả, đều có khoadanh. Ấy vào đời thứ 8 ; tôi sẽ ghi với các số 8a, 8b, vân vân.



- 8b/ Văn Nhã (1802-1877), cửnhân 1828, phóbảng 1829. Quan : Sửquán toảntu. Vợ họ Phan, sinh một trai rồi có hai cháu trai.
- 8c/ Duy-phong (1805 - 1886), tútài hai khoa 1834 và 1837, cửnhân 1840. Quan : triphủ Bình Giang. Vợ họ Phạm, có ba trai, hai gái rồi 6 cháu trai. Con gái, Thị Điểu làm vợ người cùng thôn, Hoàng Văn (đổi ra Cao) Khải, đậu cửnhân (1868), sinh Mạnh Trí (cử nhân 1897) và Trọng Phu.
- 8d/ Đình Tuấn (181O-1886), tútài hai khoa 1834 và 1837, ở làng dạy học con cháu, nhiều người thành đạt. Thiếp có con trai, Hải Châu, đậu tútài. Vợ họ Bùi, sinh 9da/ Văn Dư, cửnhân 1858, quan tuầnphủ, có vợ họ Hoàng, sinh 10dab/ Văn Du, cửnhân 1876, quan huấnđạo.
- 8e/ Đình Tuyển (1814-1864), tútài hai khoa 1837 và 1840, cửnhân 1843, phóbảng 1844. Quan : tuầnphủ Lạng Sơn, đánh dưđảng Tháibình bị tửtiết. Vợ là con gái đầu quan tiếnsĩ, thượngthư quê thôn Tùng Ảnh, Phan Bá Đạt, sinh sáu con :
- 9ea/ Đình Thông, đậu tútài, quản tàu bọc đồng.
-9eb/ Đình Thuật (1839-1881), cửnhân 1868 , quan giáothụ.
- 9ec/ Thị Văn làm vợ Lê Thống cửnhân (1868), thuộc một họ lớn tại thôn Trung Lễ gần kề.
- 9ed/ Đình Tuân (? - 1884) có con là Đình Nghinh theo chú là Đình Phùng khởi nghĩa cầnvương, và sau khi chú mất, nghe lời hiểudụ của Nguyễn Thân mà ra hàng, nhưng bị Thân giết.
- 9ee/ Đình Phùng (1847-1895), cửnhân 1876, tiếnsĩ đìnhnguyên 1877. Được bổ chứ triphủ Yên Khánh, rồi về kinh giữ chức ngựsử, tráchnhiệm tốcáo mọi sự làm trái phép nước của tất cả thầnliêu. Có lần ông được phái ra Bắc Kì khám xét sự thiêntai vì bãolụt. Về triều, ông độcnhất chống hai vị phụchánh Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết về việc phế vua Dục Đức trái lời trối của vua Tự Đức, cho nên bị cách chức đuổi về. Tuy được triệu trở lại Kinh, nhưng vì mẹ mất, ông về chịu tang.
-9ef/ Đình-Vận (1850- ? ). ông học rất thôngminh. Năm 18 tuổi, đi thi hương lần đầu mà đậu cửnhân (1867), năm sau liền đậu phóbảng. Làm quan thừachỉ Nộicác rồi triphủ Xuân Trường. Năm 1873, quân Pháp đánh phủ, ông phải giáng chức. Rồi xin về vì bệnh. Vợ là con gái ông giảinguyên bốchánh Lê Kiên quê thôn Trung Lễ đã thấy trên, cũng là chị Lê Ninh, người đầu tiên theo chiếu cầnvương mà tổ chức võ bị .

(Còn nữa)

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Gửi phản hồi
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập152
  • Hôm nay2,917
  • Tháng hiện tại399,041
  • Tổng lượt truy cập28,924,415
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây